Quận Phùng Dực, ông Lý Sơn Long làm chức tả
giám môn hiệu úy trong niên hiệu Võ Ðức bị chết, mà trên ngực khoảng bằng bàn
tay không lạnh, người nhà chưa nỡ tẩn liệm. Ðến ngày thứ bảy sống lại thuật
rằng : “Ðương lúc chết bị người bắt dẫn đến một dinh quan rất hùng tráng rộng
lớn. Trong sân có bọn tù vài nghìn người, hoặc mang gông, hoặc xiềng xích đều
đứng xây mặt về hướng Bắc, chật cả sân.
Quân hầu dắt Sơn Long đến dưới dinh. Có một
vị Thiên Quan ngồi giường cao kẻ hầu hạ nghi vệ như hàng vua chúa. Sơn Long hỏi
quân hầu:
“Quan nào đó?” Quân hầu đáp:
“Vua đấy?”. Sơn Long đến dưới thềm vua hỏi:
“Ngươi thuở bình sanh làm phước nghiệp gì?”.
Sơn Long thưa:
“Mỗi lần trong làng thiết lập trai đàn giảng
kinh tôi thường thí của vật đồng như người”.
–Vua lại hỏi: “Còn tự thân ngươi làm phước
nghiệp gì?”
Sơn Long thưa: “Tôi tụng thuộc kinh Pháp Hoa
hai quyển”.
Vua nói: “Rất hay! Ðược lên thềm”.
Ông Long đã lên trên nhà thấy phía Ðông Bắc
có một tòa cao giống như tòa diễn giảng. Vua chỉ tòa nói với Sơn Long rằng:
“Nên lên tòa này tụng kinh”.
Sơn Long vâng lệnh đến bên tòa. Vua
liền đứng dậy nói:
“Thỉnh ngài pháp sư lên tòa”. Sơn Long lên
tòa xong. Vua liền xây về phía tòa mà ngồi. Sơn Long khai kinh tụng rằng:
“Diệu Pháp Liên Hoa kinh, tự phẩm đệ nhất”.
Vua nói:
“Thỉnh pháp sư thôi”. Sơn Long liền thôi
xuống tòa lại đứng dưới thềm đoái xem trong sân, bọn tù nhân vừa rồi không còn
một người. Vua bảo Sơn Long rằng:
“Phước đức tụng kinh của ông chẳng những là
tự lợi, nhẫn đến làm cho bọn tù trong sân nhơn nghe đề kinh Pháp Hoa mà đều
đặng thoát khổ, há chẳng hay lắm sao! Nay tha ngươi trở về.
Sơn Long lạy từ. Ði đặng vài mươi bước, vua
kêu trở lại rồi bảo quân hầu: “Nên dắt người này đi xem các ngục”.
Quân hầu liền dắt Sơn Long đi qua phía đông
hơn trăm bước, thấy một thành bằng sắt rất rộng lớn, trên có mái trùm kín.
Quanh thành có nhiều lỗ nhỏ, thấy các nam nữ từ dưới đất bay vào trong lỗ liền
chẳng trở ra. Sơn Long lấy làm lạ hỏi quân hầu. –
Ðáp: “Ðây là đại địa ngục, trong đó nhiều lớp
phân cách theo tội riêng khác. Các người đó theo nghiệp riêng dữ của mình đã
tạo, vào ngục chịu khổ”.
– Sơn Long nghe xong buồn rầu sợ xưng: “Nam
Mô Phật” xin quân hầu dắt ra. Ðến cửa viện thấy một vạc lớn lửa mạnh nước sôi,
bên vạc có hai người ngồi ngủ. Sơn Long hỏi dò. Hai người đáp:
“Tôi bị báo vào vạc nước sôi này. Nhờ hiền
giả xưng Nam Mô Phật cho nên các người tội trong ngục đều đặng một ngày nghỉ
mệt nên chúng tôi ngủ”. Sơn Long lại xưng:
“Nam Mô Phật”.
Quân hầu đưa Sơn Long về nhà, thấy hàng thân
thuộc đang khóc, sắm sửa những đồ tẩn liệm, Sơn Long vào đến bên thây thời liền
sống lại...
“Nhiệm mầu thay kinh Pháp Hoa! Người tụng trì
được công đức, ngoài Phật ra không ai có thể nghĩ lường được. Ðọa địa ngục, vì
tội nghiệp nặng lên tòa vừa khai tụng đề kinh mà cả mấy ngàn tù nhân dưới sân
đều thoát khổ. Thoát khổ là bởi tội nghiệp tiêu. Tội nghiệp nặng mà tức khắc
tiêu tan, nếu không phải công đức rộng lớn quyết không thể đặng. Nghe đề kinh
Pháp Hoa mà công đức còn lớn dường ấy, huống là người trì tụng đề kinh, huống
là người trì tụng một phẩm, một quyển đến toàn bộ, nhẫn đến người giải nói,
biên chép, ấn tống. Ông Sơn Long được thoát ngục, được vua trọng, được quân hầu
kính, phải chăng là do oai lực của kinh Pháp Hoa. Ta đối với kinh Pháp Hoa,
thật nên chí thành đảnh đới, thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống,
nếu ta có chí tự thoát khổ và thoát khổ cho người”.
“Chánh pháp sâu xa rất nhiệm mầu
Trăm nghìn ức kiếp dễ tìm đâu.
Phước duyên nay gặp xin trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa lý sâu”.